Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016

Trịnh Công Sơn và tiềm thức “Thân phận mong manh”

NHẬT LỆ
Xuất hiện giữa công chúng như một ẩn sĩ, với lời lẽ hư hư thực thực, đầy giằng xé, phủ nhận, nghi hoặc, và tự khoác cho mình một tấm áo choàng chấm gót cách biệt, gần đây, gặp một Trịnh Công Sơn khác: trầm lặng về ban ngày, nhiều hội hè, gặp gỡ về đêm. Một Trịnh Công Sơn triết lý xa xôi, nói năng bong bảy, như bù trừ cho một Trịnh Công Sơn giản dị, khép kín, ưa lãng du ngày nào.
Trịnh Công Sơn và tiềm thức “Thân phận mong manh”
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Song cái tôi than thở hồn nhiên của anh thì vẫn thế, không giấu được gốc tích nỗi buồn riêng. Khi cơn cớ thở dài "Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt", cũng là khi anh đang ở đỉnh cuối vô nghĩa của vinh quang, nổi tiếng và... hư danh. "Ba mươi năm ca hát mộng mị giữa đời, ngoái nhìn: giấc mộng của người khác" (Trịnh Công Sơn). Nghĩa là sự giằng xé bao năm qua vẫn sống, giữa cuộc đời và thân phận; quá khứ và hiện tại; tuyệt vọng và tự tái tạo niềm tin; cảm giác không tìm thấy mình giữa dòng đời và lắng nghe mọi va đập, tìm cái tôi ẩn khuất trong chốn "đô thị nát tan của hồn mình".
Ám ảnh về thân phận, tình yêu ẩn hiện trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Hơn 600 ca khúc của anh là sự giãi bày với mọi người, giãi bày mà người nghe không thấy chán. Dường như bởi từng góc tâm trạng đều có mặt ta ở đấy. Nỗi buồn của Trịnh Công Sơn đã đặc trưng hoá cho những mảnh tôi "tự mình liếm vết thương". Ấy nên, người trẻ hay già đều yêu thích hoặc chấp nhận ca khúc của Trịnh Công Sơn ở mức khá phổ cập. Cái tôi ấy từng thổ lộ: "Chúng ta đã đấu tranh như một người trẻ tuổi và đã sống mệt mỏi như một kẻ già nua. Tôi đang muốn quên đi những trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ. Ở đó có hai con đường: Một con đường dẫn ta về ca tụng sự vinh quang của đời sống. Con đường còn lại dẫn về sự băng hoại".
Âm nhạc Trịnh Công Sơn dẫn người ta đến bờ vực để rồi buộc phải có một giải đáp: sụp đổ hay vượt lên.
Một nỗi đau đã theo đuổi Trịnh Công Sơn từ thuở nhỏ đến khi trưởng thành: cái chết của người cha - ông Trịnh Xuân Thanh. Cả cha và mẹ là gạch nối Trịnh Công Sơn với thơ ca (cả nhà mê thơ phú, đàm đạo). Và cũng chính họ là hai hình ảnh liên kết rõ ràng nhất về thân phận con người. Người cha bị tù đày ở lao Thừa Phủ nhiều năm vì tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau đó, cha ông chết trong một tai nạn dọc đường. Người mẹ tần tảo buôn bán nuôi 8 con trong thời kỳ người chồng bị giặc bắt và ở vậy cô quạnh một đời. Chỗ dựa tinh thần của Trịnh Công Sơn ngay từ bé đã khá chông chênh. Không có gì níu kéo anh ở lại với những dằn vặt nhỏ mọn, những nỗi lo cơm áo trì trệ..., nhìn thấy cái chết và nhận chân nó cũng là để khỏi vướng bận trước cuộc đời hữu hạn. Anh đi tìm một cõi riêng, cõi của trí tưởng tượng, của những ánh sáng đẹp đẽ hơn mà mắt thường không nhìn thấy, mải mê trong cuộc du ca của ước vọng và nghiền ngẫm, xâu kết về đời sống: anh và những người xung quanh đang tồn tại vì lẽ gì. Trịnh Công Sơn nhớ lại: "Trong giấc ngủ hằng đêm tôi thường nhìn thấy cái chết của ba tôi. Nỗi ám ảnh ấy chắc chắn không bắt nguồn từ lớp bụi tro dày của vô thức làm nên từ những cái chết của tổ tiên mà có lẽ từ những năm tù tội tra tấn chết đi sống lại của ba tôi trong kháng chiến chống Pháp. Rõ ràng là cái chết ấy được báo động qua một tâm hồn quá nhạy cảm của tuổi thơ. Ba tôi mất đi khi tôi mười lăm tuổi. Rất nhiều bài hát đầu đời của tôi đã phảng phất cái không khí vắng lặng của sự mất mát. Càng về sau, lúc tiến dần về tuổi trưởng thành, giữa những bức xúc của cuộc sống, giữa những ngày tháng buồn vui, nỗi ám ảnh ấy đã trở thành lúc nào không hay ngọn nguồn của một nỗi âu lo thường trực về sự vắng bóng con người...".
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và ca sĩ Khánh Lý tại Quán Văn

Trịnh Công Sơn sinh ngày 28/2/1939 tại Đắc Lắc, lúc nhỏ sống ở Huế, trưởng thành ở Đà Lạt, Quy Nhơn và Sài Gòn. Có thể nói, Đắc Lắc cho ra một tính cách cô đơn, mãnh liệt; Đà Lạt nuôi thơ và tâm hồn mộng mị; Quy Nhơn là điểm gấp khúc của biến động hai miền đất nước; Huế quyện vào không gian buồn bã, chậm rì trong lời ca. Ngay từ thuở nhỏ đã ham mê ca hát. Mười tuổi chơi măng đô lin và sáo trúc, 12 tuổi lần đầu tiên có cây đàn guitare trong đời... Ở Huế, Trịnh Công Sơn theo học các trường Lyceè Francais, Provindence Huế, sau vào Sài Gòn học triết ở trường Tây Lyceé J. J Rousseau Sài Gòn. Triết học là chìa khoá duy nhất giải mã cho tâm hồn người thanh niên non nớt này về cuộc sống, bản thân. Ca khúc đầu tiên được sáng tác từ năm 17 tuổi Sương đêm và Sao chiều mang rõ những nét chấm phá này. Nhưng kể từ khi Ướt mi được Nhà xuất bản An Phú in và phát hành (1959), Trịnh Công Sơn mới chính thức rong ruổi vào mảnh đất tình ca. Đó là cảm xúc được ghi lại từ những giọt nước mắt của một ca sĩ nữ sinh vừa rời ghế nhà trường, hát để kiếm tiền nuôi mẹ đang hấp hối trên giường bệnh. Tuổi hai mươi phơi phới, với ý đồ hiệp sĩ, Trịnh Công Sơn đã dung số tiền nhuận bút đầu tiên (5 ngàn đồng) để tặng ca sĩ và chia cho anh em cùng trọ. Nhưng cũng kể từ đó, thành hình một nguồn cảm hứng khác: "Như một khu vườn mùa thu yên tĩnh được một cơn gió thổi bùng lên đánh thức lớp lá vàng dậy, tâm hồn tôi đã bắt đầu biết xôn xao theo những tín hiệu dù nhỏ nhất của cuộc sống. Tôi không còn nhìn ngắm cuộc sống một cách lơ đãng nữa mà càng lúc càng thấy mình bị cuốn hút về phía những tình cảm phức tạp của con người".
Cái nhìn chăm chú vào sự chết đã xua đi nỗi sợ hãi tột cùng của mất mát: đằng sau cái chết và nỗi khiếp sợ liệu có một ý nghĩa nào, một sự tái sinh nào? Một kiếp người, ngẫu hứng là cuộc rong chơi để lại trở về hình hài cát bụi, hay còn lẽ gì lớn hơn? Vì sao sinh ra con người đã phải tuyệt vọng? Chống chọi với tất cả những nỗi hoài nghi trên, ca khúc Trịnh Công Sơn giăng mắc rất nhiều cái bẫy, cho mình và cho mọi người, để rồi tìm cách thoát khỏi đó.
**
Năm 1961, Trịnh Công Sơn bắt buộc phải trốn lính, nên thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn để có hai năm yên ổn. Khoa anh học: Tâm lý giáo dục trẻ em. Thật buồn cười, thực ra, trong đầu óc chàng trai trẻ ưa phiêu bạt ấy, học them cũng chẳng để làm gì. Tốt nhất là tự chiêm nghiệm và trải qua cuộc đời - vốn dĩ không có gì mới. Không gian biển cả và tâm trạng chớm yêu của gã trai mới lớn đã làm nên những rung động đầu mùa: Diễm xưa, Nhìn những mùa thu đi, Biển nhớ... Tất cả dồn nén buồn quay quắt. Tình yêu là một chùm quả chỉ để ngắm nhìn, dĩ nhiên, nhiều hư ảnh nhưng cũng đầy thán trách, tiếc nhớ, bị nhấn chìm trong cách xa và chia lìa, trong sự tàn hoang của ký ức. Mối tình với Bích Diễm, rụt dè và thầm kín, một thoáng cháy bùng để rồi sớm tắt ngay trong chính nỗi ngơ ngác của gã trai kia. Nhưng khi nhìn ngắm lại kỷ niệm thì "Làm sao em biết bia đá không đau!". Lần đầu tiên, anh cày xới trên nỗi yêu một thứ triết lý muộn màng. "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau". Và cũng chính lúc đó, khái niệm "đau" trong tình yêu mang nghĩa lớn hơn, cái đau của một kiếp người được mở rộng ra nhiều kiếp, nỗi thiệt thòi khi cảm nhận được mất mát không gói trong ngần ấy câu chữ mà thôi. Anh lân la trong tuổi trẻ của mình, để thấy cái gì là phù du, cái gì lay động, cái gì không thể mất. Lãng du vào hồn mình, thay vì đi qua mãi những mảnh đất khác nhau, vào cõi gốc của lòng khát sống. Ví mình như hạt bụi, như loài sâu ngủ quên, như lau trắng, mưa, nắng, như những phận tầm gửi nhưng lại biết hát lên khúc ca cuối cùng. Lúc nào cũng vội: nắng tắt, rừng khô héo, vội vàng thêm những lúc yêu người; người đã đến, và người sẽ về bên kia núi... Các vật thể được truyền vào một đời sống khác - đời sống của tâm trạng: Đường phố cười, đường phố hao mòn, tay nhanh lấp đầy hố tuyệt vọng... Dần dà, chính Trịnh Công Sơn cũng tự đi đến trạng thái vô thức lúc nào không hay: Các ca từ được nạp điện giàu sức gợi cảm hơn. Kiểu như: "Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều", "Nghe tiền thân về chào bóng lạ", "Chập chờn lau trắng trong tay", "Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê". Và đó chính là thơ. Thơ dẫn nhạc theo gót vào chốn không tưởng, rũ mọi tạp âm để có thể cất lên những giai điệu hồn nhiên nhất, da diết nhất, cho dù đôi khi chỉ là tiếng thở dài... rất Việt.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và ca sĩ Khánh Lý 

Khu vườn siêu thực đưa Trịnh Công Sơn nhanh chóng đến đỉnh cao của mọi cảm nhận âm thanh. Vị giác: "Môi ốm o lời thề"; xúc giác: "Lời cỏ cây hát trên da người"; thính giác: "Tiếng hát xanh xao của một buổi chiều"; thị giác: "Nắng thuỷ tinh"; khứu giác: "Lời ca dạ lan như ngại ngần" và một giác quan nữa - vùng tâm thức đổ bóng "hồn xanh buốt", "vùng u tối của loài sâu"... Hay là những tiếp nhận hình tượng tưởng như rất vu vơ: "Ta thấy em trong tiền kiếp, với cọng buồn cỏ khô", (Đêm thấy ta là thác đổ)... Sự vật, hoặc siêu hình, hoặc thật mong manh (tình mong manh, gió mong manh, nụ cười mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, môi rồ dại...) cuối cùng cũng được mặc áo tâm trạng của một thời kỳ muốn sống vội, yêu vội, lĩnh hội mọi điều bí ẩn của tâm linh. Dấu chân địa đàng là dòng xiết của siêu thực: âm điệu như nước cuốn trôi, không kìm nén nổi, rồi phá tung mọi kìm hãm, rồi tạm lắng, rồi như đất khát... là sự nổi loạn chống chọi thời gian, định mệnh, lãng quên, mà cuối cùng vẫn vô định. Những ca khúc ấy in đậm vũ trụ quan và thế giới quan của Trịnh Công Sơn, một kẻ ngạo mạn sáng tạo ra một cõi, rồi lại bối rối bởi không chạy thoát được cái xô ngã của đời sống, sực tỉnh giữa mê.
Nếu như Diễm xưa mở ra một không gian hoài niệm, câu thúc trong sự thoái thác của mưa, với cánh cửa ngôn từ giàu tượng hình, thì Lời buồn thánh đi vào tâm trạng cô đơn, không lối thoát trong tình yêu với những khuấy đảo vô vọng, lặp lại vùng không gian - thời gian trong sự đổ vỡ, tàn hoang của tâm hồn đồng vọng. Viết về ca khúc Trịnh Công Sơn, nhà phê bình Bửu ý từng nhận định: "Nhạc của Trịnh Công Sơn không tuyền là nhạc, bài hát không chỉ là bài hát. Mỗi bài là một truyện ngắn. Mỗi ca khúc là một chương khúc của truyện dài không có kết thúc, vẫn mở ra như một vết thương - một vết thương người, một vết thương thời đại..."
Nhưng vì sao tình yêu lại là một cuộc leo dốc và trượt dài không sao cứu vãn nổi? Đằng sau tình yêu là gì? Phải là cõi "mê", là một thế giới của mất mát? Là con đường tàn lụi? Điều đó tuỳ thuộc vào thân phận hay đúng hơn là khuôn khổ một đời người. Đi ra khỏi mọi giới hạn, để rồi không trở về được nữa, cũng là một bi kịch?
Đây cũng chính là thời điểm chín rộ của tài năng. Trước đó, Trịnh Công Sơn trải qua một giai đoạn tìm tòi để lột xác. Vào những năm 1956 - 1957, thời của những "giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại..." lúc này, Trịnh Công Sơn chưa có ý trở thành nhạc sĩ hay sáng tác ca khúc. Trằn trọc đêm này qua đêm khác vì tự dằn vặt "cái trò lãng mạn viết lách", "xướng ca vô loài". Nhưng ca khúc đã nhập hồn vào Trịnh Công Sơn. Trở thành phương tiện giúp anh tỏ tình với cuộc sống. Những năm về sau, hình thành một quan niệm sống rõ rệt: "Sống là sống với người khác, và muốn có cảm thông thì phải bộc lộ mình". Anh hiểu rằng anh được tự do trên mảnh đất (ca khúc) này.
Ngô Thị Bích Diễm

Hoạ sĩ Đinh Cường, bạn thân của Trịnh Công Sơn, nhớ lại: vào thời kỳ này, Sơn thường mặc độc nhất một chiếc áo kaki bạc màu, khắc khổ. Anh là một trong những người thầy dạy học ở miền núi sớm nhất. Sống hoang vu nhất. Căn phòng Sơn ở với chiếc mùng rủ sẵn quanh năm, chim sẻ làm tổ đầy trên trần nhà, mùi rơm và phân chim ẩm mốc, xác những bao Bastos xanh chất thành đống. Có lần, người em trai của Sơn đến thăm, không gặp, ra ngoài quán, thấy Sơn đang chơi bida một mình trong ánh đèn tù mù. Sơn cô đơn đến như vậy. Thời của tuổi trẻ tự tìm đến với những nỗi cô đơn khốc liệt để bùng lên những sáng tạo cần thiết.
**
Ca khúc là sự lựa chọn "bất khả kháng" của Trịnh Công Sơn, bởi như đã nói, đó không chỉ là nhu cầu tự thân, mà còn là cửa mở duy nhất để nhạc sĩ tìm thấy tự do, sự an ủi, những "câu hỏi buốt trí não của đời sống", để giết chết nỗi buồn của mình. Với Trịnh Công Sơn, quan niệm sáng tác khá rõ ràng, chính anh không hề úp mở: "Hàng trăm ca khúc viết xong có thể gom lại thành một cuộc đời thu nhỏ. Viết cả trăm bài càng thấy thiếu. Bởi vì con đường tình yêu đi mãi không cùng. Con đường số phận đi hoài không tận. Bằng ca khúc, tôi muốn mang đến những quà tặng cho anh em bằng hữu tôi trong cuộc liên hoan trên đất đai xứ sở này. Ca khúc là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc". Dường như đặt bút vào Ướt mi, Trịnh Công Sơn đã nghiệm ra được chân lý riêng của mình: cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là mang đến cảm thông giữa mọi ngườI bằng tiếng hát. Đó là sứ mệnh truyền đạt những âu lo, chờ đợi của con người khi đối diện với chính mình trước cuộc sống, cũng như thông điệp tình yêu và nhân ái đến với những tâm hồn yêu chuộng hòa bình và những con tim đang bị ngộ độc bởi ngòi thuốc nổ.
Trong dòng ca khúc của Trịnh Công Sơn, có thể thấy rõ quan niệm sáng tác qua từng giai đoạn: dòng ca khúc trữ tình, dòng ca khúc chống chiến tranh (phản chiến) và dòng ca khúc âm ỉ thứ ba: giải thoát bản ngã.
Giữa thập niên 60 là thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Trịnh Công Sơn. Trong số các khuynh hướng sáng tác âm nhạc ở miền Nam (1954 - 1975) (bao gồm khuynh hướng âm nhạc chống cộng, khuynh hướng âm nhạc lành mạnh, khuynh hướng âm nhạc yêu nước và cách mạng), sự xuất hiện các bản tình ca của Trịnh Công Sơn mang một vị thế nhất định, một sức sống mới. Đối tượng với tình ca Trịnh Công Sơn có dòng nhạc "tiền chiến" được phục hưng và phổ biến mạnh mẽ trở lại. Bên cạnh đó, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn đối lập với nhận thức một chiều về chiến tranh theo kiểu tâm lý chiến.
Ca khúc trữ tình là phần nghiêng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn, đặc biệt là thời kỳ trước 1975, trong số 400 bài hát được xuất bản và phổ biến. Ở giai đoạn đầu, âm hưởng chính là nét trữ tình lãng mạn. Trịnh Công Sơn vẽ ra những bầu trời có cánh bướm, cánh chuồn, cánh vạc, màu môi hồng ngọc, những "bóng tối ở đó tẩm liệm hồn người" (lời Trịnh Công Sơn). Anh mơ một tiếng hát hân hoan như ngọc chảy trên tay một người con gái, mỗi viên ngọc chứa tâm hồn đá núi ngàn năm. Có thể, đó là ước vọng thơ ngây của tuổi trẻ, của trí tưởng tượng đi theo vệt mòn các bậc "tiền bối" thuộc dòng ca khúc lãng mạn trữ tình trước và sau 1945. Một chút cô đơn sầu nhớ, một ít tuyệt vọng, sự than thở của cây thụ cầm nhiều âm trầm, ảo tưởng tình yêu đuổi bắt chập chờn... "Gọi em cho nắng chết trên sông dài", "Thương ai buồn kiếp người, lạnh lùng ánh sao rơi"... Một kiểu tình yêu gần như đơn phương, phảng phất vị tiếc nuối, có phần hơi kể lể, trong một không gian hồi tưởng không mấy xê dịch, biến chuyển, trong điệu thức âm u của tâm trạng. Ở những ca khúc đầu tay, thời gian được xoá nhoà trong cõi mộng, gờn gợn thứ âm nhạc "liêu trai" nhiều hư ảnh. Tóm gọn lại, chỉ là một góc cạnh đa cảm của nhạc sĩ trẻ mà thôi.
Nhưng vào thời kỳ bỏ dạy học ở Blao (Lâm Đồng) về Sài Gòn, guồng xiết của không gian đô thị đã lần lượt bóc đi lớp vỏ uỷ mị, hiền lành trong những ca khúc tương tự như thế. "Cơn gió lãng mạn trữ tình của một thời niên thiếu" như Trịnh Công Sơn từng gọi đã được thay thế bằng những "cơn lốc dằn vặt trên thân phận con người" trong chiến tranh. Cuộc sống nhiều cọ xát đã xua đi các ảo tưởng. Những ca khúc trữ tình của Trịnh Công Sơn sâu sắc hơn, gập ghềnh hơn: "Những ngày ngồi rủ tóc âm u, nghe tiền thân về chào bóng lạ", "Một ngày còn sống, chiếc bóng long lanh, một đời về không, hai tay quy hàng", "Ngủ yên đời đi con như vết thương đau ngủ buồn như trùng dương mắt thâm còn nghe ngóng, rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình"... Thậm chí dửng dưng "Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời... lòng không buồn mấy...". Triền mạch hoang mang và thấu suốt, tô và xoá, lồng quá khứ trong hiện tại. Tình yêu siêu thoát, tưởng đã gục ngã, nhưng không phải, không bi luỵ hay khóc than khô khốc mà vạch một nét nhân bản sâu xa. Những linh cảm về đổ vỡ, huỷ diệt làm "Nhói lên những con âm tha thiết và tha thiết là vũ khí duy nhất của con người để kháng cự huỷ diệt" (Hoàng Hưng).
Rất có thể, Trịnh Công Sơn đã lạm dụng chữ "tình", "sầu", "buồn" trong nhiều bài hát. Nguồn khơi mạch này dễ dẫn người ta đến triền dốc buông thả, quy hàng trước nghịch cảnh. Nhưng đó chỉ là nỗi ám ảnh không gian và thời gian, nỗi ám ảnh của Định mệnh. Còn không là một cõi hư vô. Đến một cường độ nào đó, người ta bỗng thôi tuyệt vọng, mà tự mình trồi lên thở như cá. Đấy là phần kết "có hậu" trong những nỗi tuyệt vọng mà Trịnh Công Sơn tự đánh đắm tàu mình. Thường tự ví là "phận cỏ hèn"; "Đời ta có khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do...", ít nhiều họ Trịnh chịu ảnh hưởng Albert Camus. Tự đầy đoạ mình trong "mối yêu thương con người". Ngỡ "Thiền" mà lại không, mọi nỗi đau quá biến động trong cái vỏ ngôn từ có thể gọi tên được. Tin vào kiếp luân hồi: "Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi". Vào hư không: "Chiều hôm thức dậy, chập chờn lau trắng trong tay". Vào hoá thân: "Ta thấy em trong tiền kiếp". Cứ như thế, thế giới nội tâm của Trịnh Công Sơn tự loại bỏ mâu thuẫn, săm soi từng khoảnh khắc hiện tại, nhìn lùi quá khứ xa xăm, tìm cứu cánh ngoài bản thân mình. Trịnh Công Sơn từng thú nhận: "Nỗi sầu muộn lớn nhất là không bao giờ nói hết được lòng mình. Tôi tập cho tôi biết sững sờ trước những điều dung tục, đồng thời tôi cũng tập cho tôi biết giữ lòng bình an trước những hiểu nhầm".
Chiến tranh đã xáo trộn tất cả. Một loạt mâu thuẫn nội tại trong tiềm thức Trịnh Công Sơn bị dội sang một bên. "Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông. Ta nhìn ta về giữa trời hư không. Tên em là vết thương khô” (Khói trời mênh mông). Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn. Những bài hát trong hai tập Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam trưng dụng những màu sắc hoàn toàn điên đảo, không nhằm miêu tả tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những phóng xạ chiến tranh. Với tư cách nhân chứng, Trịnh Công Sơn ghi lại tất cả nỗi đau đớn "viết trên xác người" và nỗi đau đớn đó trào dâng thành uất hận ngùn ngụt khi được hát trên môi.
Thái độ đầu tiên phản kháng chiến tranh là trốn lính. Để được miễn quân dịch, Trịnh Công Sơn bỏ lên sống ở Lâm Đồng, sâu trong vùng núi heo hút. Sau đó, anh quyết định về lại Sài Gòn. Để có được hai năm trời sống thong dong hợp pháp, Trịnh Công Sơn phải nhịn đói tuyệt đối 60 ngày (mỗi năm 30 ngày) trước khi ra trình diện. Cộng thêm uống thuốc điamox (loại thuốc rút bớt nước trong tế bào ra) để xuống ký nhanh. Một thời gian sau, anh không phải ra trình diện nữa vì người anh gầy còm y như dân xì ke, sức khoẻ suy sụp thực sự. Như một kẻ vô gia cư, Trịnh Công Sơn lang thang cùng một số sinh viên trong những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất sau Đại học Văn khoa. Ngủ trên ghế bố hay nền xi măng, đến đánh răng ở các quán cà phê quen biết.
 
Sống trong thời kỳ bấp bênh đó, Trịnh Công Sơn vẫn viết và hát. Đó là thời kỳ sôi động nhất trong đời người nhạc sĩ trẻ. Những ca khúc của anh được in ra từng tờ rời và tuyển tập. Dần dà, việc in ấn cũng khó khăn vì bị cảnh sát truy lùng. Phải rải ra in ở 4 nhà in khác nhau. Vì tính chất phản chiến của ca khúc Trịnh Công Sơn mà chính quyền ra lệnh tịch thu. Các báo trong và ngoài nước đổ xô tìm gặp Trịnh Công Sơn phỏng vấn. Nhưng quan trọng hơn, cái không khí chết chóc, đau thương của chiến tranh đã ngấm dần vào tâm hồn nhạy cảm của Trịnh Công Sơn, và anh đã viết nên những bài hát như đùa chơi với ma quỷ, chết chóc, mà thực ra là nỗi đau thương nước đến bàng hoàng. Bài ca dành cho xác người: "Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành, từng vùng thịt xương có mẹ có em" (Đại bác ru đêm). Hay "Mẹ vỗ tay reo mừng xác con, mẹ vỗ tay hoan hô hoà bình" (Hát trên những xác người). "Người già co ro ngồi nghe tiếng nổ, em bé loã lồ khóc tuổi thơ đi" (Người già và em bé).
Là người quan sát, nhưng Trịnh Công Sơn không dấu nổi tâm trạng đau đớn khi đối diện với sự chết chóc của đồng loại. Anh khóc cho những thân phận con người, thân phận đất nước trong chiến tranh: "Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong". "Ôi quê hương đã lầm than sao còn chiến tranh, mẹ già hết chờ mong đã ngủ yên" (Du mục). Dù khai thác cái bi thương nhưng những bài ca trong Ca khúc da vàng vẫn toả ra tình yêu thương quê hương. Cái cảm giác trải qua chiến tranh làm con người già đi, nhưng lại lớn hơn trong nhận thức: "Đường phố nào còn nằm che giấu, cho tôi đi giữa nhân loại đớn đau" (Có những con đường). "Khi tôi đứng bên một xác người", - Trịnh Công Sơn thổ lộ, - tôi không nghĩ đó là ta hay là địch, mà đó là một thân phận chịu đựng sự vô nghĩa của chiến tranh". Anh có một ước muốn duy nhất và đơn giản: "Khi đất nước tôi không còn giết nhau, trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường". Hay "Đường tương lai không ai thù ghét nhau". Mặc dù quan niệm về chiến tranh còn chưa rạch ròi, nhưng những khúc đoản ca bi phẫn của Trịnh Công Sơn đã đẩy âm nhạc lãnh một sứ mệnh: kêu gọi hoà bình. Vào thời kỳ này, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn được phổ biến rộng rãi ở nước ngoài. Bài Ngủ đi con trong tập Ca khúc da vàng đã đoạt giải Đĩa hát vàng ở Nhật vào năm 1972, qua giọng hát Khánh Ly (trên hai triệu đĩa). Kể từ đó, tên của Trịnh Công Sơn có trong cuốn Tự điển Bách khoa Pháp. Không chỉ mở ra vết thương người, vết thương nhân loại trong chiến tranh, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn còn vươn tới một tầm cao hơn - là tiếng kinh cầu cho linh hồn đau khổ siêu thoát, là sự bất lực hoá thành ăn năn.
Nga Mi - người đẹp trong gia đình bốn chị em tên Mi, cũng từng “gắn bó” với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
(Ảnh do nhà văn Bửu Ý cung cấp)

Sau 1975, một thời kỳ thử thách lại đến với Trịnh Công Sơn - thử thách về lòng kiên nhẫn, ý thức dấn thân vào đời sống. Trải qua hai năm học tập ở Cồn Tiên, vùng đất hoang vu đầy bom đạn, Trịnh Công Sơn có được một thời kỳ yên tĩnh để nhìn lại mình trong các biến động lịch sử. Suốt một thời gian dài hầu như anh không sáng tác. Đó là lúc anh tìm "chân dung của nỗi khát khao", đi tìm cái chưa bao giờ viết được. "Tiếng hát từ đó sẽ giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc, mọi trì kéo"... (Trịnh Công Sơn). Lần lượt đi thực tế nông trường theo anh em thanh niên xung phong. Gặp 20 người con gái Thanh niên xung phong ở nông trường Nhị Xuân. Hôm sau nghe tin các cô đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Ca khúc bấy giờ cất lên tiếng nói của mình: soi tỏ hơn nữa số phận con người. Hàng loạt ca khúc mới ra đời, là băn khoăn đời thường, ý chí vượt qua tuyệt vọng để sống và thèm sống:Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Tuổi đời mênh mông, Huyền thoại Mẹ, Đoá hoa vô thường, Em còn nhớ hay em đã quên, Em ở nông trường, em ra biên giới, Ru đời đi nhé, Sóng về đâu... Vẫn là một Trịnh Công Sơn than thở, ví mình là cỏ, thích ca hát, rong chơi. Nhưng đã là một Trịnh Công Sơn đã thấu hiểu cuộc đời, tự điều chỉnh mình bằng sự cân bằng nội tại. "Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh sấm bay rền vang, bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn, nụ cườI mong manh, một hồn yếu đuối..." (Đoá hoa vô thường). Hay tự khuyên nhủ mình "Tôi là ai mà yêu quá đời này, tôi đang lắng nghe im lặng đời mình”, (Tôi ơi đừng tuyệt vọng), "Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi, chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời", (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Nhưng nhìn chung, càng về sau, ca từ Trịnh Công Sơn sử dụng càng đơn giản, ít cầu kỳ và thiên về tự tình, kể lể nhiều hơn Chất bi thương giảm hẳn, bù lại là một gắng gỏi tồn tại không vô nghĩa. Vẫn là triết lý về thân phận, tình yêu, nỗi cô đơn, nhưng ở một góc nhìn khác, một nỗI buồn khác. Yếu tố siêu thực trở nên nhạt nhoà so với sáng tác trước 1975. Cô đơn và trầm tư, nhạc sĩ đào sâu vào bí mật của tồn tại, vào việc giải thoát bản ngã. "Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một đời không hết tình đâu". Những triết lý có phần yếm thế, dù đã gắng vui nhưng không mấy hồn nhiên. Và chẳng bao giờ giải thoát nổi cho mình ra khỏi sự rối rắm của ý muốn. "Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi thử rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy mình lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm. Và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh. Mỗi ngày sống tới, tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm", "Nhưng khỏi phải e ngại rằng Trịnh Công Sơn định làm triết lý thay vì âm nhạc" - nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bình luận. "Điều khiến cho tình ca Trịnh Công Sơn sống mãi trong lòng người chính là ở đây. Dù những trầm tư của tác giả đi xa đến đâu, âm nhạc Trịnh Công Sơn vẫn là cõi riêng dành cho tình yêu. Nó chứa đựng tất cả tâm trạng lo âu của con người nhạy cảm nhìn ra thế giới hiện đại".
Ca từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, như đã nói, là thơ. Ở đó đầy rẫy những hình tượng biểu cảm: "Tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời làm sóng lênh đênh", hay "Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi". Sự tìm tòi, sáng tạo chữ nghĩa ở Trịnh Công Sơn luôn hướng về cái lạ, sự liên tưởng đột biến để rơi vào cõi vô thức. Nhà thơ Nguyễn Duy từng nhận xét: "Quỷ thật, giai điệu ấy, lời ca ấy tự nhiên ghim lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Cái đẹp từ câu nhạc, cái đẹp trong ca từ cả xác chữ lẫn hồn thơ, lảng bảng, lờ mờ, khó phân định đúng nghĩa, nhưng rõ ràng đẹp làm sao và cũng hơi ma quái thế nào..." Chất mê muội nhiều xáo trộn của ngôn từ Trịnh Công Sơn làm nên sự kết dính của liên tưởng. "Trí óc và cảm xúc của Trịnh Công Sơn phù hợp với tổng hợp hơn là phân tích, nghiêng về kết hợp hơn là phân chia. Hình ảnh chiếc cầu đối với anh là một lời mời gọi cất bước sang bên kia, đồng thời chuyển biến sang bên này và ngược lại. Băng qua cầu là để sống với bên kia và nhớ sang bên này. Trong nỗi sống đã tượng hình nỗi nhớ. Người đi trên cầu không những nhìn ôm cả hai phía mà có thể nhìn cút bắt với những khuỷu sông thấp thoáng ẩn hiện, cấu tạo dần dần trong tâm khảm cái dư cảm lìa xa, mất mát" (Bửu Ý).
Nhịp điệu chậm rãi, quay tròn, đều đều, hễ bài hát cất lên là người ta nhận ngay ra gương mặt Trịnh Công Sơn. Lúc là giai điệu buồn tẻ của mưa, vòng xoay của hoài niệm, khi là tiếng nói âm u từ một cõi khóc, trầm khô. Những khi dòng nhạc không làm chủ được giai điệu, cứ như xô lấn để dệt nên một nỗi tuyệt vọng. Cũng có khi là tiếng thét, là nỗi hờn héo úa... Vui trong buồn, buồn trong vui, những giai điệu quyến rũ là ở chỗ không biết nên phân loại vào cấp độ tâm trạng nào. Người viết cứ than thở, giai điệu theo sau tán thưởng bằng sự chơi vơi - đó là những nỗi buồn "không chân" bay rải rác la đà trên mặt đất, trong một phút ngẫu hứng, Trịnh Công Sơn xâu chuỗi lại thành một mê khúc mang âm hưởng những điệu hát Chàm ru hời về một vương quốc đã mất. Hay là một chút réo rắt của nhạc cung đình Huế? Nhưng có một điều lạ, là cho dù âm nhạc Trịnh Công Sơn luôn rủ rê người ta buồn rũ ra, không cười được, cũng không khóc được, cũng chính là khi rệu rã nhất, người ta phải tự nạp năng lượng để không rệu rã them và thoát ra khỏi cái mê cung buồn sầu ấy lúc nào không hay. Cũng có khi nỗi buồn đó của giai điệu quấn quýt không rời và làm nên một niềm an ủi vô cớ. Có phải là vì "Trịnh Công Sơn nắm bắt được tiết tấu bản chất của Định mệnh kiểu phương Đông, đặc biệt Việt Nam trong nhịp bốn và năm âm tiết" chăng? (Hoàng Hưng). Hay nỗi buồn của con người cũng có giới hạn, như những âm trầm khi đã chạm đến đáy sâu trầm nhất thì tất yếu phải dội lên, phải phản hồi những cung bậc cao hơn?
Người đẹp Lưu Thị Kim Đính thời xuân xanh, một trong những nhan sắc Huế
được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chú ý

Nói về cuộc gặp gỡ "tri âm" với âm nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Văn Cao viết: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre), bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ. Và nơi Sơn đã hát về quê hương đất nước, biết vui tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền... Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là ở chính chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào mà vẫn thấm vào lòng như suối tưới. Với những lời ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa. Và nếu không lầm thì dấu ấn của Sơn đã ít nhiều in trên tác phẩm của một số nhạc sĩ thời kỳ sau 1975".
**
Sẽ không công bằng nếu như nhắc đến sự nghiệp của Trịnh Công Sơn mà lại không nhắc đến một giọng hát thở than điêu luyện và vào bậc nhất cho ca khúc Trịnh Công Sơn: Khánh Ly. Người ta không ai thoát ra khỏi những ám ảnh mà không chỉ do nhạc, do lời ca mà do cả cái giọng khàn khàn trầm ấy cuốn hút. Khánh Ly hát như thở, không uốn éo, làm duyên, nhưng lạ kỳ thay, tiếng hát làm nên sinh khí cho ca khúc Trịnh Công Sơn, như cỏ và sương đêm vậy. Từ ca khúc phản chiến đến ca khúc trữ tình, tất cả làm thành một không gian - Khánh Ly. Không gian khói sương, cánh hạc bay vút, và đôi khi chán chường ê chề, không thể khác. Tiếng hát Khánh Ly mà đã bủa vây thì không để lại một lối thoát nào ra khỏi những gì mà lời ca đang than thở. Hít một hơi thở sâu không khí tươi mát để thay vào những lời ca thán khí, đó là chất mới ở Khánh Ly. Đó là giọng hát từ quá khứ dội lại, đê mê và đầy liên luỵ, không ảo tưởng nhưng lại đầy ẩn dụ. Có một thời bao nhiêu đồn đại, cho rằng Khánh Ly và Trịnh Công Sơn hẳn phải là một cặp tri âm tri kỷ kiểu như "Bá Nha - Tử Kỳ" mới cho ra những ca khúc và giọng hát ăn khớp nhau như thế. Nhưng theo Trịnh Công Sơn thì ngày trước, anh và Khánh Ly như hai người bạn thân. Mối giao cảm tinh thần chỉ dừng lại trong những khoảng khắc xuất thần nhất của câu hát và bài hát. Còn hiện tại? Mỗi người ở một phương, nghĩ về nhau cũng như những nốt nhạc tuổi trẻ.
Song nếu nói rằng những mối tình đi qua đời Trịnh Công Sơn đều nhàn nhạt để tàn phai là không phải. Thời trai trẻ, không chỉ một hình bóng Diễm xưa, mà còn rất nhiều hình bóng khác đi vào ca khúc chàng lãng du họ Trịnh. Người em của Bích Diễm là một kỷ niệm sâu đậm trong anh. Mối tình cuộn lên trong Biển nhớ, Nắng thuỷ tinh dành cho Ngô Vũ Dao Ánh. Người con gái có đôi môi đỏ rực, đôi môi hồng ngọc, là nỗi thảng thốt đầu đời của Trịnh Công Sơn trước cái đẹp của người con gái. Khi Diễm đi lấy chồng, cô chị còn gửi lại lời than trách cho em: "Em biết chị vẫn yêu anh Sơn, sao lại viết thư tỏ tình với anh ấy?" Hoá ra cả hai đều say mê chàng lãng du họ Trịnh cùng một lúc. Về sau, Dao ánh lấy một người ông thành đạt, sang sống ở Canađa. Một mối tình khác trong Nhìn những mùa thu đi là dành cho Phương Thảo, cô gái Huế duy nhất trong đời Trịnh Công Sơn. (Hầu như Trịnh Công Sơn thường phải lòng những cô gái miền Bắc, giọng nói nhỏ nhẹ, tóc dài, dáng cao cao mảnh mai...). Thuở đó, anh làm gia sư tiếng Pháp cho Thảo. Một mối tình với cái hôn đầu đời "luống cuống không biết đặt vào chỗ nào". Rồi sau đó có nàng Phùng Thị với đôi khoen tai to tròn mà họ Trịnh nhìn thấy trên cao nguyên Đà Lạt: "Ta thấy em đang ngồi khóc, khi rừng chiều đổ mưa"... Những mối tình như nắng, bùng lên mãnh liệt rồi lại nhạt nhanh, nhưng để lại không ít nỗi ngậm ngùi trong tâm hồn gã trai đã bán cho ca khúc mất rồi...

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Danh ca Bạch Yến và “Đêm đông” định mệnh

TP - “Ca khúc Đêm đông đến với tôi như là một định mệnh, nó đã làm thay đổi cuộc đời tôi khi đưa tôi đến đỉnh vinh quang của sự nghiệp nhưng cũng khiến tôi phải đi một quãng đường dài trong cuộc đời với những cô đơn lạnh giá. Giống như hình ảnh người kỹ nữ trong ca khúc”- Danh ca Bạch Yến đã nói như thế khi kể về cuộc đời mình.
Tranh: Nguyễn Xuân Hoàng.Tranh: Nguyễn Xuân Hoàng.
Sinh ra Sóc Trăng, cô bé Quách Thị Bạch Yến có năng khiếu ca hát nên ngay khi còn bé đã được hát trong ca đoàn ở Cần Thơ. Sau khi lên Sài Gòn sống cùng mẹ, cô bé đã gặp nhạc sỹ Lê Thương. Thấy cô bé có giọng hát tốt, nhạc sỹ đã khuyên cô nên tham dự cuộc thi “Tiếng hát Nhi đồng” do đài phát thanh Pháp Á tổ chức. Bạch Yến đã đạt giải Vàng và được mời cộng tác với đài.
Đó là năm Bạch Yến mới hơn 10 tuổi. Nhưng sau một thời gian, đài Pháp Á ngưng hoạt động, Bạch Yến phải xin đi hát ở phòng trà để đỡ đần cho gia đình. Ở cái tuổi “ăn chưa no- lo chưa tới”, Bạch Yến phải cố hóa trang thật già dặn để lên sân khấu, hát những ca khúc của người lớn như “Bến cũ”, “Gái xuân”… hay những ca khúc trữ tình bằng tiếng Pháp. Rồi tập nhảy, tập giật những ca khúc Rock and Roll, Twist…. vốn đang dần ăn khách tại Sài Gòn. Và rồi Bạch Yến tình cờ nghe được ca khúc Đêm đông của nhạc sỹ Nguyễn Văn Thương, ca khúc đã làm thay đổi cuộc đời của cô ca sỹ phòng trà.
Trước Bạch Yến, đã có nhiều người hát ca khúc Đêm đông nhưng chỉ hát theo điệu tango theo đúng nguyên bản. Khi Bạch Yến chọn ca khúc này, chị đã quyết đổi ra điệu slow rock. “Thời đó không có đạo diễn âm thanh hay đạo diễn sân khấu, ban nhạc và người làm ánh sáng chỉ làm theo yêu cầu của ca sỹ.
Tôi thấy đây là một ca khúc buồn nên hát ở điệu slow rock hợp hơn. Dù chẳng hiểu biết gì nhiều nhưng tôi vẫn mạnh dạn dàn dựng ánh sáng, từ sân khấu tối mịt ban đầu rồi ban nhạc chơi nhẹ một đoạn giai điệu buồn, ca sỹ từ từ cất tiếng tự do và ánh sáng chùm chiếu theo bóng ca sỹ… Giờ nghĩ lại thấy buồn cười vì cách suy nghĩ hơi trẻ con đó của mình. Nhưng có lẽ tôi đã nghĩ đúng”, ca sỹ Bạch Yến nói.
Danh ca Bạch Yến và “Đêm đông” định mệnh - ảnh 1
Đêm ra mắt ca khúc Đêm đông của Bạch Yến đã tạo được hiệu ứng không ngờ, khán giả đồng loạt đứng lên vỗ tay khen ngợi. Một ca sỹ nhí chỉ mới 15 tuổi mà dám mạnh dạn thổi một phong cách mới vào ca khúc cũ, khiến ca khúc thăng hoa, làm nên một hiện tượng thời đó.
Tiết tấu đều đặn của tango cho một ca khúc buồn dường như chưa tải hết được nội dung, hình ảnh người kỹ nữ lặng lẽ cô đơn trong đêm đông thanh vắng qua nhịp chậm buồn của slow đã khiến hình ảnh đó lung linh gấp bội.
Bạch Yến đã thể hiện được cái hồn ca khúc rõ nét nhất, chân thực nhất. Từ Bạch Yến, nhiều ca sỹ đã hát ca khúc Đêm đông theo cách này. Nhưng người tiên phong là Bạch Yến vẫn gây được sự chú ý nhiều nhất. Các phòng trà, các vũ trường liên tục mời Bạch Yến tới hát và cô bé trở thành ca sỹ đắt show nhất ở Sài Gòn những năm cuối thập niên 50 đến đầu thập niên 60 của thế kỷ trước.
Gần 30 năm sau khi hát bài Đêm đông lần đầu tiên, Bạch Yến đã gặp nhạc sỹ Nguyễn Văn Thương và đã được ông chấp bút tặng cho một bản ký âm ca khúc này. Chị giữ rất kỹ và đang dự tính sẽ làm một phòng lưu niệm những ca khúc chị đã hát và được chính tác giả ký âm trao tặng. 
Năm 1961, biết không thể thành công nếu cứ khai thác mãi hình ảnh một ca sỹ nhí, Bạch Yến đã chọn con đường du học tại Pháp nhằm nâng cao khả năng biểu diễn. Tại Pháp, Bạch Yến được một số hãng đĩa mời hát và đi lưu diễn nhiều nơi. Tuy có thu nhập lý tưởng nhưng Bạch Yến vẫn xác định học để về nước biểu diễn. Vì thế học xong, năm 1963 Bạch Yến trở lại Sài Gòn, tiếp tục ngự trị trong Top những ca sỹ hàng đầu Sài Gòn.
Nhưng dường như ca khúc Đêm đông vẫn gắn chặt với cuộc đời Bạch Yến khi năm 1965, chị được chương trình Ed Sullivan Show mời sang Mỹ trình diễn. Đây là chương trình truyền hình giải trí ăn khách nhất của Mỹ thời đó với mỗi lần truyền hình thu hút trên 40 triệu khách xem.
Năm 1964, nhóm nhạc huyền thoại Beatles lần đầu tiên xuất hiện tại Mỹ cũng trên Ed Sullivan Show và đã thu hút trên 70 triệu lượt người xem, trở thành một trong những chương trình truyền hình ăn khách nhất thời đại. Được Ed Sullivan Show mời là vinh dự cho bất cứ ca sỹ nào trên thế giới và Bạch Yến là người Việt Nam đầu tiên được xuất hiện trên show này.
Chị đã chọn hai ca khúc cho phần trình diễn của mình là Đêm đông và If I had a hammer. Buổi diễn thành công, Bạch Yến được các nhà sản xuất mời về Hollywood hát một ca khúc trong bộ phim The Green Berets.
Rồi nhiều nhà sản xuất mời Bạch Yến đi show. Có tiền, lại có công việc phù hợp, Bạch Yến bị cuốn. Ban đầu chị dự tính chỉ sang Mỹ 2 tuần cho Ed Sullivan Show nhưng rồi chị đã lưu lạc nơi đất Mỹ đến mấy chục năm.
Bạch Yến nhớ lại: “Lúc đó tôi mới thấy mình sao giống hoàn cảnh cô kỹ nữ trong ca khúc Đêm đông. Một mình nơi đất khách, nhất là những đêm đi diễn về, cô quạnh trong cái lạnh, trong sự vắng lặng của bóng đêm, thèm nghe một câu tiếng Việt cũng không có được. Buồn lắm”. 
Danh ca Bạch Yến và “Đêm đông” định mệnh - ảnh 2
Là ca sỹ “chuyên trị” những dòng nhạc sôi động nhưng lại thành danh với ca khúc Đêm đông não tình, cuộc đời của Bạch Yến tưởng chừng như mãi sẽ bị “ám” bởi ca khúc này. Nhưng như người đời từng nói: “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai”, cuộc đời Bạch Yến đã có một bước ngoặt lớn khi gặp được ca sỹ Quang Hải.
Năm 1978, khi Bạch Yến đi Pháp thăm người thân, chị đã tình cờ gặp Quang Hải. Khi đó Quang Hải chỉ là một giáo sư dạy nhạc dân tộc Việt Nam ít tiếng tăm còn Bạch Yến đang là một ca sỹ đã thành danh tại Mỹ. Như duyên phận, họ chỉ gặp nhau một lần mà đã phải lòng nhau và một đám cưới giản dị nhưng đầm ấm đã được tổ chức. Lập gia đình, Bạch Yến từ bỏ tất cả tiếng tăm, công việc biểu diễn đang thành công tại Mỹ để cùng chồng xây dựng những dự án âm nhạc dân tộc.
Lý giải về điều này, Bạch Yến bảo: ‘Từ trước tới khi gặp anh Hải, tôi rất ít hát nhạc dân tộc hay những ca khúc mang âm hưởng dân ca. Thế nhưng tôi là người Việt, những ca khúc dân ca đã ăn sâu vào tiềm thức tôi từ nhỏ, tôi không hát vì tôi không được ai dạy chứ không phải không thích.
Nay gặp anh Hải, một người đam mê suốt đời vì nhạc dân tộc, tôi thấy mình như được chắp cánh”. Từ một ca sỹ hát nhạc phương Tây, Bạch Yến đã làm một cuộc cách mạng cho bản thân khi quay sang dân ca Việt. Dù chị thừa nhận là khó khăn bởi tuổi đã luống, giọng đã quen với kiểu hát nhạc ngoại giờ hát dân ca khó mà mềm mại như nhiều người nhưng Bạch Yến vẫn kiên trì luyện tập.
Từ giã những show diễn hoành tráng, Bạch Yến cùng chồng đi hát, giảng dạy, giới thiệu âm nhạc dân tộc ở các trường học, các trung tâm nghiên cứu khắp châu Âu. Thu nhập dĩ nhiên là không thể so với trước nhưng Bạch Yến bảo: “Tôi có cuộc sống hạnh phúc, có một công việc đầy ý nghĩa để đam mê và người bạn đời cùng đồng hành trong cả cuộc sống lẫn công việc. Như thế thì còn gì bằng, có tiền bạc gì mà so sánh nổi”. 
Từ ngày lập gia đình, Bạch Yến hay trở về Việt Nam. Chị bảo về để học, nhạc dân tộc, không học ở đâu bằng học ở chính quê hương mình. Và mãi tới tận hôm nay, chị mới bắt tay vào làm một liveshow cho riêng mình. Chị bảo đã 58 năm đi hát, mơ ước lớn nhất của chị là được hát trên quê hương mình. Trong liveshow Đêm đông vừa diễn ra giữa tháng 12, chị trải lòng mình qua những ca khúc đã gắn với tên tuổi của mình trong nhiều năm lưu lạc.
Nhân vật chính của “Tình bơ vơ”
Theo Bạch Yến, những năm đầu sống ở Mỹ, chị tìm hiểu và biết rằng cả nước Mỹ mênh mông mấy trăm triệu người mà chỉ có một ngàn người gốc Việt. Chị đã thu thập toàn bộ địa chỉ của hơn ngàn người đó và mỗi khi tới thành phố nào biểu diễn, việc đầu tiên là chị liên lạc, mời những Việt kiều đó đi xem. Chủ yếu là chia sẻ với nhau vì nỗi nhớ Việt Nam. Hơn chục năm sống cô đơn ở Mỹ, Bạch Yến cũng có vài mối tình, vài sự quen biết nhưng tất cả chỉ thoáng qua. Và một điều Bạch Yến không hề biết là ở quê hương, một nhạc sỹ có tên tuổi là Lam Phương vẫn ôm mối tình câm với chị, chỉ biết gửi lòng mình qua những ca khúc buồn tê tái đến não lòng như Kiếp tha hương, Tình bơ vơ, Em đi rồi, Biết đến bao giờ… Trong đó ca khúc nổi tiếng Tình bơ vơ như lời tự sự từ đáy lòng chàng nhạc sỹ: “Về làm chi, rồi em lặng lẽ ra đi, mang hết yêu thương gom lại, đem hết cho người tình xa”.  Lam Phương không hề biết rằng ở nơi xa, “nàng thơ” của ông cũng đang cô đơn. 
Trọng Thịnh - báo Tiền Phong 

Lủng Túi ?

Việt Nam cần thận trọng trước “bẫy ODA”

Đăng Bởi  - 
Viet Nam, bay ODA, Ngan hang The gioi, WB, ngan sach quoc gia

Vấn đề nợ công, bội chi cũng như các yếu tố đang gây sức ép lên ngân sách quốc gia trong tương lai lại được đặt ra một cách đáng lo ngại, khi vào ngày 22.3 vừa qua Bộ Tài chính đã chính thức tuyên bố lộ trình chấm dứt các nguồn vốn vay ODA lãi suất thấp mà Việt Nam vẫn nhận được trong những năm qua sẽ kết thúc vào tháng 7.2017.


Việc các tổ chức quốc tế chấm dứt các khoản vay ODA ưu đãi có lãi suất thấp với Việt Nam không có nghĩa là chúng ta sẽ lâm vào tình trạng thiếu nguồn vốn đầu tư phát triển, mà là sẽ buộc phải chấp nhận các khoản vay ODA có lãi suất cao hơn và thời gian hoàn trả ngắn hơn.
Nói cách khác, ODA từ sau thời điểm tháng 7.2017 sẽ trở thành một áp lực cực lớn lên ngân sách quốc gia trong tương lai. Và kịch bản mà các chuyên gia kinh tế thế giới vẫn thường xuyên nhắc nhở các quốc gia đang phát triển về điều gọi là “bẫy ODA” giờ đây đã ở rất gần Việt Nam.
Theo báo cáo từ Bộ Tài chính, theo lộ trình thì Ngân hàng Thế giới (WB) sẽ chấm dứt các khoản cho vay ODA ưu đãi với Việt Nam bắt đầu từ tháng 7.2017, và chuyển sang các khoản vay ODA dần theo hướng thị trường. Trên thực tế, xu hướng giảm dần các khoản vay ODA ưu đãi cho Việt Nam đã bắt đầu từ năm 2010 sau khi Việt Nam chính thức có tên trong danh sách các quốc gia có thu nhập trung bình, tức không thuộc diện được hưởng các nguồn vốn vay ODA lãi suất thấp nữa. Và trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện tại, với mức nợ công đang ở sát ngưỡng cho phép là gần 65%, cùng với thực trạng sử dụng vốn vay thiếu hiệu quả dẫn đến áp lực trả nợ ngắn hạn và trả lãi đang đè nặng lên ngân sách quốc gia hơn bao giờ hết, thì việc không còn các khoản vay ODA ưu đãi có thể khiến Việt Nam lại gần hơn với “bẫy ODA”.


Sở dĩ như thế, là vì tính đến trước năm 2010, hầu hết các khoản vay ODA mà Việt Nam nhận được từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) là các khoản vay có mức độ ưu đãi rất lớn. Trong đó phần lớn là các khoản vay có lãi suất rất thấp, chỉ khoảng 0,7-0,8%, có thời hạn kéo dài từ 30-40 năm kèm thêm thời gian ân hạn. Điều này có nghĩa là áp lực trả nợ cho các khoản vay này đối với Việt Nam khá thấp, không chỉ có lãi suất thấp mà thời hạn phải trả nợ cũng khá dài, khả năng gây sức ép trả nợ ngắn hạn và lãi suất là khá thấp.
Còn sau thời điểm tháng 7.2017, các khoản vay ODA mà Việt Nam có thể nhận được sẽ khác hoàn toàn. Lãi suất sẽ tăng lên từ 2-3,5% và thời hạn cũng ngắn hơn, chỉ từ 10-25 năm. Nó có nghĩa là không những áp lực trả nợ đối với Việt Nam sẽ nặng nề hơn do thời hạn thanh toán ngắn, mà còn gây sức ép lên ngân sách quốc gia do số tiền phải chi để trả lãi suất cũng sẽ nhiều hơn từ 3-4 lần.
Đây là điều rất đáng lo ngại khi mà theo tính toán của Chính phủ và Bộ Tài chính số vốn ODA mà Việt Nam cần vay để phát triển kinh tế trong giai đoạn tới còn nhiều hơn gấp bội, trong khi ngưỡng nợ công quốc gia đang ở sát giới hạn cho phép. Theo thống kê, trong giai đoạn 10 năm qua từ 2005-2015 tổng số vốn vay ODA và vay ưu đãi mà Việt Nam ký kết là vào khoảng 45 tỉ USD; trong khi đó theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành địa phương vào đầu năm nay thì tổng nhu cầu huy động và sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2016-2020 lên tới 39,5 tỉ USD, tức là gần gấp đôi giai đoạn những năm vừa qua. 
Điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ có nguy cơ phải đối mặt với việc phải gánh chịu một khoản nợ khổng lồ cần phải chi trả. Vì với tốc độ vay trung bình trong thời gian qua là 4,5 tỉ USD/năm mà nợ công của Việt Nam đã ở sát ngưỡng cho phép là 65%, thì khi mà tốc độ vay trung bình trong 5 năm tới lên đến gần 8 tỉ USD/năm mà lại với lãi suất cao từ 3-4 lần và thời gian trả nợ ngắn chỉ còn khoảng một nửa, thì không ai có thể tưởng tượng một kịch bản tồi tệ đến mức nào nếu chúng ta vẫn tiếp tục có mức độ sử dụng vốn vay kém cỏi như hiện tại.
Đây chính là nguy cơ mà các chuyên gia kinh tế thế giới vẫn thường cảnh báo các quốc gia đang phát triển với tên gọi là “bẫy ODA”. Nguy cơ này diễn ra với các nước đang phát triển ký kết và huy động quá nhiều các khoản vay nước ngoài với quy mô lớn, trong khi mức độ sử dụng nguồn vốn vay lại quá kém cỏi. Tình trạng này tích tụ trong nhiều năm dẫn đến nguy cơ về mất an toàn nợ công, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng và mắc kẹt trong việc chi trả và thanh toán các khoản nợ nước ngoài ngày càng tăng lên theo cấp số nhân.

Việt Nam ở thời điểm hiện tại đang có hầu hết các dấu hiệu cho thấy “bẫy ODA” đã ở rất gần nền kinh tế. Trước hết, nợ công quốc gia đang ở mức trên 62% và đã ở sát ngưỡng cho phép là 65%. Quy mô thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và lãi suất ngày càng nhiều và chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trên ngân sách quốc gia.
Cụ thể, theo báo cáo của Bộ Tài chính thì con số trả nợ trong năm 2015 chiếm khoảng 16% tổng thu ngân sách, con số này sẽ tăng lên mức hơn 24% tổng thu ngân sách trong năm 2016 theo dự kiến. Điều này có nghĩa là khoảng 1/4 ngân sách quốc gia sẽ được dành để trả nợ hàng năm, và nó đang khá chính xác với cảnh báo mà WB đã đưa ra cách đây không lâu rằng gánh nặng trả nợ ngắn hạn và lãi suất đang đè nặng lên ngân sách và làm hao mòn các khoản chi cần thiết dành cho phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, theo ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), thì việc Việt Nam sẽ ngày càng phải bỏ ra nhiều hơn để chi trả các khoản nợ và lãi suất sẽ ngày càng tăng lên, chứ không có xu hướng giảm trong ít nhất là gần 10 năm tới.
Ông Long cho biết: “Tôi tính toán dòng tiền và từng khoản nợ hiện nay của Việt Nam, thời điểm phải trả nhiều nhất rơi vào khoảng năm 2022-2025, từ nay đến 2020 vẫn chưa phải là nhiều”. Điều này có nghĩa là mức chi trả nợ lên đến 24% tổng thu ngân sách năm 2016 theo dự kiến vẫn chưa phải là ngưỡng cao nhất, và thậm chí là trong 10 năm tới tỷ lệ này sẽ còn tăng lên gấp nhiều lần.
Đây thực sự là một viễn cảnh đáng lo ngại, và nếu thực sự xảy ra thì việc Việt Nam có thể tránh khỏi cái “bẫy ODA” là gần như không thể. Với tốc độ vay trung bình tăng gấp đôi (gần 8 tỉ USD/năm trong giai đoạn 2016-2020 so với 4 tỉ USD/năm trong giai đoạn 2005-2015), lãi suất cao hơn từ 3-4 lần và thời hạn trả nợ ngắn hơn 2 lần, thì rõ ràng là gánh nặng lên nợ công quốc gia lẫn ngân sách quốc gia trong tương lai là cực lớn, lớn gấp nhiều lần mức hiện tại mà theo nhiều chuyên gia cũng đang là quá nặng nề.
Một khi đã rơi vào “bẫy ODA”, với nợ công vượt trần còn ngân sách thì phải chi phần lớn ra để trả nợ thay vì đầu tư cho phát triển kinh tế thì dù Việt Nam có gia nhập bao nhiêu hiệp định thương mại đi nữa cũng sẽ vẫn mãi là một nước nghèo và chậm phát triển.

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

Học giả Macau: Tên lửa YJ-62 Trung Quốc đe dọa an ninh biển Việt Nam

(GDVN) - "Đó là một mối đe dọa lớn đối với an ninh hàng hải của Việt Nam, và đó cũng là một hành vi vi phạm luật pháp quốc tế", ông Antony Wong Dong nhận xét.
South China Morning Post ngày 25/3 cho hay, tạp chí quân sự IHS Jane Defense Weekly nhận định rằng, qua một số bức ảnh truyền thông quân sự Trung Quốc phát tán trên mạng internet tuần qua về hoạt động tập trận bắn tên lửa chống hạm YJ-62 của Hạm đội Nam Hải, có thể thấy Trung Quốc đã bố trí (bất hợp pháp) loại tên lửa này ở đảo Phú Lâm, Hoàng Sa (Đà Nẵng, Việt Nam).
Một trong những bức ảnh chụp tên lửa YJ-62 được Trung Quốc phóng đi trong cuộc tập trận của lữ đoàn tên lửa thuộc Hạm đội Nam Hải, được cho là diễn ra bất hợp pháp trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, Đà Nẵng, Việt Nam. Ảnh: SCMP.
Một Đại tá quân đội Trung Quốc nghỉ hưu nói với South China Morning Post, hải quân Trung Quốc đã lên kế hoạch triển khai (bất hợp pháp) tên lửa YJ-62 lên đảo Phú Lâm từ lâu.
"HQ-9 và YJ-62 sẽ bổ sung cho nhau, tên lửa phòng không và tên lửa chống hạm. Việc triển khai là 'cần thiết' vì Lầu Năm Góc đã tuyên bố sẽ điều động thêm chiến hạm đến Biển Đông", viên Đại tá giấu tên này nói.

Việt Nam nên ứng xử như thế nào với vai trò, hoạt động của Mỹ ở Biển Đông?

Lương Quốc Lượng, một nhà bình luận Hồng Kông cho rằng, HQ-9 và YJ-62 có thể sử dụng chung một loại ra đa. Cả hai đều được hải quân Trung Quốc trang bị cho khu trục hạm mang tên lửa dẫn đường lớp 052C.
Ông Lượng nhấn mạnh, việc Bắc Kinh triển khai (bất hợp pháp) tên lửa HQ-9 và bây giờ là YJ-62 ở Phú Lâm, Hoàng Sa là có ý đồ chiến lược, đó là thực thi yêu sách "vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý" (bất hợp pháp) đối với Hoàng Sa.
Xin lưu ý, năm 1996 Trung Quốc công bố cái gọi là "đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng lãnh hải" đối với quần đảo Hoàng Sa. Đây là một hành vi bóp méo luật pháp quốc tế, vận dụng sai Điều 47 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 về đường cơ sở thẳng áp dụng cho "quốc gia quần đảo", hoặc những đảo có đời sống kinh tế riêng, thích hợp với cuộc sống con người.
Cả Hoàng Sa và Trường Sa đều không đủ điều kiện áp dụng Điều 47 UNCLOS.
Vụ Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam năm 2014, Bắc Kinh cũng rêu rao rằng vị trí hạ đặt 981 năm trong "vùng đặc quyền kinh tế Hoàng Sa". Đó là một cái bẫy pháp lý nhắm tới 2 mục tiêu: Giành sự thừa nhận về "chủ quyền" của Trung Quốc với Hoàng Sa, giành sự thừa nhận yêu sách 200 hải lý vô lý cho Hoàng Sa - PV.
Hình minh họa đường cơ sở Trung Quốc tự vẽ ở Hoàng Sa bằng cách "vận dụng" vô lý phương pháp xác định đường cơ sở thẳng, áp dụng cho quốc gia quần đảo theo Điều 47 UNCLOS do học giả Song Phan, Sydney, Úc đồ họa.
Nay với khả năng triển khai các tên lửa có tầm bắn khoảng 300 km bất hợp pháp trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, theo phân tích của ông Lương Quốc Lượng thì Trung Quốc đang âm mưu hiện thực hóa yêu sách vô lý, phi pháp 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế cho Hoàng Sa.
Học giả Macau, Antony Wong Dong lưu ý, tầm bắn của cả HQ-9 và YJ-62 đặt ở Phú Lâm có thể đe dọa đến vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Riêng YJ-62 thậm chí có tầm bắn xa hơn.
"Đó là một mối đe dọa lớn đối với an ninh hàng hải của Việt Nam, và đó cũng là một hành vi vi phạm luật pháp quốc tế", ông Antony Wong Dong nhận xét.

Mỹ phá yêu sách đường cơ sở thẳng phi pháp Trung Quốc vẽ ở Hoàng Sa

Bình luận về thông tin này, diễn đàn quân sự Trung Quốc dingsheng.com ngày 24/3 cho rằng, tầm bắn của YJ-62 Trung Quốc đặt (bất hợp pháp) ở Phú Lâm bao trùm lên 3 trong số 4 căn cứ hải quân trọng yếu của Việt Nam, bao gồm cảng Cam Ranh.
Diễn đàn này cho rằng, việc Trung Quốc bố trí YJ-62 ở Phú Lâm, Hoàng Sa là để "trả đũa" việc Nhật Bản cho 2 khu trục hạm thăm cảng Cam Ranh của Việt Nam, đồng thời cũng tạo ra mạng lưới hỏa lực bảo vệ cho các căn cứ hải quân trọng yếu của Trung Quốc trên đảo Hải Nam.
Thận trọng hơn, học giả Harry J.Kazianis từ Quỹ Potomac bình luận trên The National Interest, "nếu" thông tin Trung Quốc triển khai YJ-62 trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa được xác minh, thì đây là một hành vi leo thang mới hết sức nguy hiểm của Bắc Kinh trên Biển Đông. Thời gian tới, Trung Quốc sẽ còn leo thang hung hăng hơn.
Hồng Thủy

Chơi luật ngầm ở Biển Đông, TQ không ngờ có ngày khóc vì vênh váo

Hết đe doạ tới “xuống nước” năn nỉ, song Trung Quốc, bằng những hành động ngày càng hung hăng trên Biển Đông, đã không thể khiến Indonesia tiếp tục im lặng.



Địa phương xác nhận, Bộ Quốc phòng bác bỏ
Cuộc đối đầu mới đây giữa tàu tuần tra Indonesia và tàu Trung Quốc, liên quan tới một tàu cá đánh bắt trái phép tại khu vực quần đảo Natuna ở Biển Đông chỉ là tiếp nối những vụ việc tương tự đã từng xảy ra và sau đó được “dàn xếp” trong im lặng.
Trong các bài viết trên trang The Strategist của Viện Chính sách Chiến lược Úc trước năm 2014, ông Scott Bentley, nghiên cứu sinh tại Học Viện Quốc phòng Úc (UNSW), đã dẫn ra nhiều nguồn thông tin kể lại các vụ đối đầu giữa Trung Quốc và Indonesia ở Natuna.
Một báo cáo đăng tải trên một blog quân sự của Indonesia tháng 9/2013, được cho là của chính Thuyền trưởng tàu HM 001 thuộc Bộ Hàng hải - Thủy sản Indonesia, viết lại chi tiết vụ va chạm giữa tàu của họ với tàu Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia
Cụ thể, ngày 26/3/2013, HM 001 đã phát hiện và bắt giữ toàn bộ 9 thuyền viên trên tàu cá Trung Quốc mang số hiệu 58081 đánh bắt trái phép tại khu vực cách quần đảo Natuna khoảng 200 km về phía đông bắc.
Khi đang trên đường tiến vào bờ, HM 001 đã bị tàu chấp pháp Trung Quốc Yuzheng 310 tiếp cận. Tàu này "được trang bị súng máy, pháo hạng nhẹ và thiết bị cảm biến điện tử".
Đi trước Yuzheng 310 là "tàu nghiên cứu môi trường và tài nguyên thủy sản" Nan Feng - dài 66 mét, nặng gần 2 nghìn tấn - của Viện Khoa học Thủy Sản Trung Quốc. Theo thông tin ở blog nói trên, Nan Feng đã bí mật theo dõi HM 001 từ vài tiếng trước.
Khi tới hiện trường, Yuzheng 310 ngay lập tức hú còi yêu cầu tàu Indonesia dừng lại, đe doạ, đòi thả người.
Báo cáo trên blog này khẳng định, không đủ năng lực chống trả và đột ngột không thể kết nối với trụ sở bằng điện thoại vệ tinh (khả năng do bị Yuzheng 310 phá sóng), HM 001 buộc phải chấp nhận yêu cầu từ phía Trung Quốc nhằm bảo đảm sự an toàn cho các thuyền viên.
Nhà phân tích Bentley cho biết thêm, các nguồn tin địa phương đã xác nhận vụ việc trên, song Bộ Quốc phòng Indonesia lại khẳng định không có cuộc đối đầu nào như vậy xảy ra.
Trước đó, tháng 6/2010, tàu Yuzheng 311 của Trung Quốc được cho là "đã chĩa súng máy cỡ nòng lớn vào một tàu tuần tra Indonesia đang bắt giữ một tàu cá Trung Quốc gần Natuna, ép họ phải thả thuyền".

Một tàu hải quân Indonesia (phía xa bên trái) đối đầu với một tàu Hải cảnh Trung Quốc gần Natuna. Nguồn: Bộ Hàng hải - Thuỷ sản Indonesia.
Một tàu hải quân Indonesia (phía xa bên trái) đối đầu với một tàu Hải cảnh Trung Quốc gần Natuna. Nguồn: Bộ Hàng hải - Thuỷ sản Indonesia.
Một vụ tương tự cũng xảy ra cách đó chỉ một tháng – ngày 12/5/2010, tàu hải quân Indonesia buộc phải thả tàu cá đánh bắt trái phép sau khi bị 2 tàu của Cục Thủy Sản và Chỉ huy Thực thi Pháp luật Trung Quốc (FLEC) mang số hiệu 301 và 302 chĩa súng đe doạ.
Trong khi Indonesia cố gắng giữ kín, thì Trung Quốc lại tự hào công bố những hình ảnh của vụ đối đầu tháng 5/2010, cũng như vụ tháng 3/2013, trong một bộ phim tài liệu dài 8 phần về hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, phát trên kênh CCTV4.
Phim tài liệu của Trung Quốc nêu rõ, khi 2 tàu của FLEC tới hiện trường, họ thấy một "tàu nước ngoài", dài 80 mét, được trang bị "súng bắn rocket và pháo nạp đạn tự động".
Dựa vào hình ảnh từ phía Trung Quốc, ông Bentley cho rằng, “tàu nước ngoài” này thực chất là tàu tuần tra lớp Todak của Hải quân Indonesia. Todak không có súng bắn rocket, song được trang bị 2 khẩu pháo hải quân Bofors, có khả năng bắn chính xác ở khoảng cách vài km.
Mặc dù nhỏ hơn tàu Trung Quốc, song Todak, với hệ thống vũ khí vượt trội và phạm vi khai hỏa của mình, chắc chắn có thể "hạ" hai tàu tuần tra FLEC.
Tuy nhiên, Todak đã không làm vậy – toàn bộ thủy thủ đoàn người Indonesia tự để mình bị khẩu súng cỡ nòng 12,7mm đe doạ, và sau đó là thả người.
Hình ảnh đẹp, lợi ích lớn ‘níu chân” Indonesia
Phần lớn các sự kiện tương tự xảy ra tại vùng biển Natuna dưới thời nhà lãnh đạo tiền nhiệm của Widodo, Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono, đều được giải quyết một cách nhanh gọn, im ắng.
Không công hàm phản đối, không triệu đại sứ, gần như không công bố chi tiết với báo giới.
Ông Yudhoyono cũng tránh công khai bày tỏ lo ngại trước thực tế rằng, cái gọi là đường chín đoạn phi pháp mà Trung Quốc ngang nhiên vạch ra trên Biển Đông chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia quanh quần đảo Natuna.
Theo giới chuyên gia, “cái giá” của sự im lặng này là để bảo vệ lợi ích với Trung Quốc cũng như hình ảnh trước cộng đồng thế giới.
Jakarta nhận thức một cách sâu sắc rằng, nước này sẽ mất rất nhiều nếu mối quan hệ với đối tác thương mại lớn nhất là Bắc Kinh xấu đi, theo nhà nghiên cứu an ninh hàng hải người Indonesia Ristian Atriandi Supriyanto.
Ở thời điểm năm 2012, Trung Quốc cam kết khoản đầu tư tín dụng 19 tỉ USD và khoản vay trị giá 9 tỉ USD, giúp Indonesia phát triển cơ sở hạ tầng.
Bắc Kinh và Jakarta đã thiết lập quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, bao gồm phát triển và sản xuất tên lửa cho hải quân.
Hai quốc gia cũng thống nhất thành lập Trung Tâm Trung Quốc - Indonesia về Đại Dương và Khí Hậu (ICCOC) để nghiên cứu thời tiết và hải dương học, bao gồm cả ở quần đảo Natuna.
Trung Quốc còn đề nghị Indonesia xây dựng hệ thống giám sát ven biển trị giá 158 triệu USD.
Bên cạnh đó, Indonesia cũng tính toán, nước này sẽ đạt lợi ích tốt nhất nếu duy trì sự độc lập về chiến lược thông qua việc thúc đẩy quan hệ đối tác đa phương.
Điều này khiến Jakarta trong suốt nhiều thập kỷ lựa chọn đứng ở vị trí trung lập đối với các tranh chấp trên Biển Đông. Sự im lặng của Indonesia cũng chính là xuất phát từ nỗi lo làm xấu đi hình ảnh trung lập này của mình.
HỌC GIẢ NGƯỜI INDONESIA
RISTIAN ATRIANDI SUPRIYANTO
Indonesia tự coi bản thân mình là một bên trung lập và trung gian hòa giải tiềm năng trong các tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, xét trong tình hình lợi ích cá nhân và các thực tế địa chính trị đang diễn ra, quan điểm này sẽ sớm bị lung lay.
Dự đoán về sự thay đổi thái độ của Indonesia mà ông Supriyanto đưa ra đã được chứng minh là đúng, sau cuộc đối đầu giữa tàu tuần tra Trung Quốc và Indonesia liên quan đến một tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép tại Natuna mới đây.
Lá thư đe dọa có dấu tem Trung Quốc
Việc Indonesia công khai một cách minh bạch chi tiết vụ việc lần này trên truyền thông, bất chấp cuộc điện thoại năn nỉ “đừng cung cấp tin cho báo chí” từ Trung Quốc là động thái khá bất ngờ.
Ông Supriyanto cho rằng, có vẻ như Bộ Hàng hải - Thủy sản Indonesia đang cố gắng thu hút sự chú ý nhiều nhất có thể của dư luận trong nước đối với hành động của Trung Quốc chống lại chiến dịch trấn áp tàu cá đánh bắt trái phép.
Sự quan tâm lớn hơn của dư luận có thể sẽ trở thành áp lực, buộc chính phủ Indonesia phải phản đối mạnh mẽ hơn nữa các hành động hung hăng của Trung Quốc, ngay lập tức thực hiện lời hứa tăng cường an ninh hàng hải tại Natuna - vốn đang trở nên rất cấp bách.
Trung Quốc đang đẩy nhanh tốc độ xây dựng trên các quần đảo mà nước này chiếm đóng trái phép ở BIển Đông, nhằm áp đặt quyền kiểm soát bên trong cái gọi là “đường lưỡi bò” phi pháp.
Cũng trên The Strategist, cây viết John McBeth cho rằng, ngư dân Trung Quốc có thể sẽ ngang nhiên sử dụng những vùng biển này làm bàn đạp để tiến xa hơn về phía nam, đe dọa tới lợi ích kinh tế riêng, khiến Indonesia không thể bỏ qua.
"Widodo từng lưỡng lự trong cách tiếp cận với Bắc Kinh, đặc biệt là khi các công ty Trung Quốc đã hỗ trợ tài chính và giúp xây dựng một số cơ sở hạ tầng có giá trịh, bao gồm các dự án đường sắt siêu tốc nối liền Jakarta - Bandung và một số nhà máy điện chạy bằng than".
Cây viết này tiết lộ, ngay sau khi chiến dịch của Indonesia được tiến hành, Bộ trưởng Bộ Hàng hải - Thủy sản Indonesia đã nhận được một lá thư được gửi tới nhà riêng của mình.
Lá thư có dấu tem của Đại sứ Trung Quốc, cảnh báo những hậu quả thảm khốc nếu các tàu cá Trung Quốc bị đánh đắm.
Kết quả là, kể từ sau khi thực hiện chính sách cứng rắn nhằm ngăn chặn các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp trong vùng biển của mình cuối năm 2014, Indonesia đã đánh chìm 155 tàu cá nước ngoài, và trong số đó chỉ có 1 tàu cá Trung Quốc.

Những hình ảnh của tàu cá Trung Quốc bị Indonesia bắt giữ, do Bộ Hàng hải - Thuỷ sản nước này công bố.
Những hình ảnh của tàu cá Trung Quốc bị Indonesia bắt giữ, do Bộ Hàng hải - Thuỷ sản nước này công bố.
Như vậy, có thể xem vụ việc lần này là thử thách thực tế đầu tiên đối với tham vọng biến Indonesia thành cường quốc hải quân của Tổng thống Joko Widodo.
Vốn quen im lặng, giới chức Indonesia có thể gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp trả hành động gây hấn ngày càng tăng của Trung Quốc tại quần đảo Natuna, bên cạnh biện pháp phản đối về ngoại giao đơn thuần.
Các nhà hoạch định chính sách chiến lược Indonesia hiện đang đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc trả đũa hành động leo thang của Trung Quốc, hoặc tiếp tục hợp tác như bình thường và đón nhận các sự việc tương tự lặp lại trong tương lai.
Dù thế, “bất cứ hình thức đáp trả nào cũng còn phụ thuộc vào việc, Jakarta sẵn sàng, và có thể "trả giá" tới mức nào khi làm xấu đi mối quan hệ với Bắc Kinh”, ông McBeth kết luận.